Chuyển đến nội dung chính

LIỆU "ĐỂ MAI" CÓ LÀM?

Một phần thú vị khác về moral licensing (tạm dịch là chứng chỉ đạo đức) là chứng chỉ hứa hẹn (tomorrow licenses today – Kelly McGonagal). Chúng ta hứa hẹn với bản thân từ ngày mai sẽ tập thể dục, từ ngày mai sẽ ăn kiêng, từ ngày mai sẽ học hành đàng hoàng tử tế, và ngày mai đó mãi chưa thấy tới. Những lời hứa hẹn này cho phép chúng ta tự chiều chuộng bản thân, vì chỉ còn mỗi “hôm nay” để sung sướng thôi mà :D.


Giáo sư Robin Tanner, đại học Wisconsin, Madison và Kurt Carlson, đại học Duke yêu cầu một nhóm dự đoán trung bình bao nhiêu lần trong tuần họ sẽ tập thể dục trong tháng tới. Các giáo sư hỏi một nhóm khác câu hỏi tương tự nhưng thêm vào “trong thế giới lí tưởng” ở phía trước câu hỏi. Câu trả lời của hai nhóm không khác gì nhau. Những người tham gia tự ước lượng thời gian tập thể dục lí tưởng trong một tuần của họ thay vì số lần thực tế. Khi được nói “vui lòng đừng dự đoán mức lí tưởng, hãy đưa ra mức thực tế mà bạn có thể làm”, những người tham gia thậm chí còn đưa ra mức còn lạc quan hơn khi không thêm câu này nữa.

Ngoài ra, không ngoài dự đoán, khi những người làm thí nghiệm mời các nhóm tham gia quay lại sau hai tuần để kiểm chứng về số lần họ tập thể dục trong tuần, con số này thấp hơn mức họ đưa ra nhiều.Thậm chí khi được hỏi dự đoán cho hai tuần kế tiếp, những người tham gia thậm chí còn đưa ra mức cao hơn mức họ dự đoán lần đầu, với tâm lý là sẽ tập nghiêm túc và nhiều hơn để bù lại lần trước không thực hiện được.

Để sửa tâm lý chứng chỉ hứa hẹn này, giảm sự thay đổi liên quan đến hành vi muốn sửa của bạn trong ngày. Ví dụ như bạn muốn giảm số lượng thuốc lá hút trong một ngày, giữ nguyên số lượng bạn sẽ hút mỗi ngày [Howard Rachlin], đừng quyết định giảm xuống một cách đột ngột, bạn sẽ nghĩ thôi hôm nay hút nốt rồi mai cắt xuống bù. Tạo daily rule cho mình, ví dụ mỗi ngày 10 cái gập bụng và làm ngay trước khi đánh răng buổi sáng thay vì lên kế hoạch sẽ chạy bộ 30 phút mỗi ngày, bạn gần như sẽ bỏ cuộc từ lúc nghĩ là sẽ đi lấy giày chạy bộ, “để mai chạy bù”.

Đừng bao giờ “để mai làm” đối với dự án bạn đang thực hiện hoặc bài cần phải học, vì ngày mai sẽ kết thúc tương tự như ngày hôm nay. Nếu bạn không quản lý thời gian của ngày hôm nay tốt thì ngày mai cũng vậy. Khi trì hoãn công việc đến ngày mai, bạn tự cho phép mình chơi, tận hưởng sự thoải mái, và khi ngày mai đến, đối diện với việc ra quyết định có làm hay không, bạn sẽ lại quyết định trì hoãn. Và khi deadline đến, bạn muốn nổ tung với một núi công việc cần phải hoàn thành, thời gian thì cứ tíc tắc trôi.

Để tránh tâm lý trì hoãn, tránh những lúc dồn công việc lại rồi điên cuồng dí deadline, hãy bắt tay ngay vào làm, không bao giờ cho bản thân lựa chọn để ngày mai làm, bạn sẽ mau chóng thoát ra khỏi tâm lý chán nản lúc bắt đầu, đồng thời sẽ né được tâm trạng hoảng hốt, mệt mỏi, chán nản kéo dài sau này. Vì việc trì hoãn thậm chí sẽ thành thói quen nếu bạn làm nhiều lần.


Mình đang làm nghiên cứu sinh ở Hàn, và làm ở đây, đặc biệt là ngành kỹ thuật, khó mà tránh khỏi bị giáo sư soi. Mỗi lần giáo sư lượn lờ trong lab, ngó vào máy tính mình là mình lại cảm thấy khó chịu, không làm được gì, rồi mình nghĩ bụng, thôi để ông í đi rồi mình tập trung vào làm. Thế rồi ông giáo đi từ lúc nào mình không biết, vì mình bận lướt web, đọc newfeeds trên điện thoại cầm tay. Cứ như vậy công việc dồn lại, nhiều khi cuối tuần mình cũng phải làm, hoặc mình phải tự cắt bớt công việc, không hoàn thành nó theo cách như mình mong muốn. Mỗi lần như vậy mình cảm thấy rất stress, và mất khá lâu sau đó mình mới lấy lại cân bằng để làm việc được.

Mỗi lần cảm thấy không muốn làm việc và muốn trì hoãn, mình nghĩ đến tương lai khi tốt nghiệp không có nhiều papers (bài báo khoa học) được published, không tìm được việc làm...để tự lôi bản thân ra. Hãy nghĩ về việc hôm nay không làm thì ngày mai chắc chắn cũng chẳng khá hơn. Đồng thời mình list những việc cần làm theo thứ tự ưu tiên để cố gắng hoàn thành, nhưng không đặt mục tiêu quá cao vì không hoàn thành sẽ khiến bản thân thất vọng và rơi lại vào vòng lẩn quẩn.

Nhận xét

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LÀM SAO ĐỂ HẠNH PHÚC?

Hạnh phúc không phải là một thứ mà chúng ta có thể mua, theo đúng nghĩa bóng và nghĩa đen. Tiền nhiều chưa chắc mình cảm thấy hạnh phúc. Thật nhiều tiền thì có thể  🤣 . Đùa thôi chứ theo như nghiên cứu khoa học thì mức độ hạnh phúc của con người không tỷ lệ tuyến tính theo số tiền chúng ta có. Chúng ta chỉ cảm thấy hạnh phúc HƠN khi chúng ta có ít nhất 5 triệu đô (hơn 100 tỷ đồng) trong số dư tài khoản tiết kiệm (không tính tiền kinh doanh hay bất động sản). Với số tiền đó thì một người đã cảm thấy an toàn về tương lai của mình rồi. Và là HƠN thôi chứ không phải là hoàn toàn nhé. Người giàu cũng có những áp lực tài chính kiểu giàu, và những vấn đề cá nhân khác. Mà lỡ đâu mình không thể giàu nổi thì thôi mình phải an phận tìm cách khác để hạnh phúc vậy. Vậy thì làm sao để hạnh phúc? 🌸  Tâm lý học hiện đại đưa ra định nghĩa hạnh phúc là một trạng thái của tinh thần, không phải là mãi mãi, cũng như buồn, phấn khích, hay thất vọng. Nó đến rồi đi, như trời mưa với nắng. ...

TRÍ TUỆ NHÂN TẠO ĐÃ ĐI ĐẾN ĐÂU?

Google từ khoá “trí tuệ nhân tạo” sẽ ra hơn 30 triệu kết quả và dẫn đầu là những trang với tựa như “nguy cơ trí tuệ nhân tạo thao túng con người” hay “trí tuệ nhân tạo đã đạt đến trình độ sáng tác ngôn ngữ mới khiến con người ‘như vịt nghe sấm’ “. Nghe cứ như năm sau là các robot trong The terminator sẽ đến bắt con người làm nô lệ cho chúng vậy. Rốt cuộc trí tuệ nhân tạo là gì và nó đã phát triển đến đâu? Theo wiki thì trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence – AI) là trí tuệ được biểu diễn bằng bất kì một hệ thống nhân tạo nào. Thực ra để đạt được tầm trí tuệ nhân tạo toàn diện (general AI) như trong các bộ phim viễn tưởng về AI – có thể kể đến như The terminator, Ex Machina, Her, v.v… – thì chặng đường còn rất xa. Hiện nay các nghiên cứu khoa học mới nhất về trí tuệ nhân tạo chỉ dừng ở chơi cờ, chơi game, nhận diện khuôn mặt, dự đoán giá cả, nhận diện đối tượng trong hình, đặt tên cho hình (caption), chẩn đoán bệnh, v.v… – nói chung là những tác vụ rời rạc. Nghĩa là AI ...

NEUROPLASTICITY (KHẢ BIẾN THẦN KINH) VÀ NHÂN SINH QUAN

Các vùng vỏ não đã từng được gán cố định cho một chức năng thần kinh nhất định (localization), ví dụ như fusiform face area, một vùng nhỏ bên não phía sau tai, là để nhận diện khuôn mặt, vùng thị giác visual area V4, V5 để xử lí tín hiệu đưa từ mắt. Tuy nhiên, cho đến những năm 1960, thiết bị để nhìn cho người mù bẩm sinh của Paul Bach-y-Rita đã thay đổi cách nhìn nhận của giới khoa học về bộ não, đồng thời khái niệm neuroplasticity dần dần được chấp nhận và đưa vào nghiên cứu rộng rãi. Bắt nguồn từ một thí nghiệm cho thấy vùng não xử lí hình ảnh của con mèo còn xử lí cả âm thanh và xúc giác, Bach-y-Rita đã chú ý đến neuroplasticity và thực hiện nhiều nghiên cứu liên quan. Bên cạnh thiết bị giúp cho người mù bẩm sinh có thể nhìn, Bach-y-Rita còn thiết kế nhiều thiết bị trợ giúp trong y tế khác như thiết bị đóng vai trò như một tuyến yên nhân tạo để giúp cho những người chức năng giữ cân bằng của tuyến yên không hoạt động, hay găng tay có thể cảm nhận được dành cho các phi hành gia.....