Chuyển đến nội dung chính

FACEBOOK VÀ SỰ TRÌ HOÃN

Trong một nghiên cứu mới đăng tháng 11 năm 2016 của đại học Johannes Gutenberg, Đức, các nhà tâm lý học chỉ ra sự liên quan giữa facebook (fb) và việc trì hoãn công việc, học hành; thậm chí thói quen lướt fb còn làm tăng stress trong công việc, học hành và nhiều khía cạnh khác của cuộc sống [1].

Fb làm chúng ta cảm thấy thỏa mãn, và việc bấm vào fb lướt newfeed mỗi ngày đã trở thành thói quen của nhiều người. Nhưng sự thực thì fb làm chúng ta trì hoãn công việc, học hành của mình, và nó không hề giúp chúng ta đạt được mục tiêu thực sự của cuộc đời.



Fb cũng khó khước từ như rượu, bia, thuốc lá hay bánh ngọt. Nghiên cứu này được thực hiện trên 354 và 355 sinh viên, tuổi trung bình ngoài 20 một chút. Kết quả báo cáo rằng 78% người tham gia sử dụng fb 6-7 ngày trên một tuần, và tổng thời gian vào fb mỗi tuần là 7.3 đến 8.5 giờ, tương đương với một ngày làm việc. Và chỉ có 9% số người tham gia thông báo họ không dùng fb để trì hoãn công việc. Đó là kết quả nghiên cứu ở Đức, một dân tộc nổi tiếng về kỉ luật, ở Việt Nam có lẽ thời gian sử dụng fb sẽ còn nhiều hơn.

Quay trở lại vấn đề tại sao chúng ta nghiện fb.

Fb cho chúng ta cảm giác thỏa mãn. Thỏa mãn khi đăng hình lên và mọi người bấm like. Thỏa mãn cái sự muốn khoe. Thỏa mãn cái sự tò mò về cuộc sống của người khác. Thỏa mãn khi người/status mình không thích bị ném đá. Cứ nhìn lại những post bị ném đá thì thấy chúng hung hãn và đông đúc như thế nào. Và chúng ta không thể phủ nhận cảm giác hài lòng của mình khi nhìn thấy “bầy đàn”, dù là mình không xuống tay comment, để không bị liệt vào hàng anh hùng bàn phím.

Khi đăng những hình ảnh hào nhoáng của bản thân, chúng ta cũng đồng thời tự huyễn hoặc về cuộc sống của mình. Lựa chọn chỉ đăng những hình đẹp khi đi chơi, đi ăn ở quán sang trọng, đi du lịch, hay chỉ những hình đẹp, rồi nhận những like, những lời khen làm bản thân mình tự cảm thấy hài lòng về cuộc sống của mình, cảm thấy cuộc sống ảo đáng sống hơn cuộc sống bộn bề thực sự. Điều này càng làm tăng số lần và khoảng thời gian ở trên fb.

Fb làm chúng ta tạm quên những cảm xúc nhàm chán của công việc đang làm. Thậm chí khi gặp vấn đề trục trặc chúng ta cũng đăng lên để tìm niềm an ủi, thường là từ những người chẳng bao giờ đồng cảm.

Tâm lý của con người theo cơ chế thưởng phạt. Chúng ta có xu hướng sẽ lặp lại những việc làm chúng ta có cảm giác thỏa mãn (thưởng –reward) [2-3]. Trong một nghiên cứu của Olds, nhà khoa học thần kinh tìm ra vùng não xử lí cảm xúc thỏa mãn, ông sử dụng một bộ kích thích để kích hoạt phần não này thì người tham gia thí nghiệm bỏ cả ăn để tiếp tục kích thích, thậm chí năn nỉ kích hoạt thêm sau khi thí nghiệm đã chấm dứt . Còn fb thì chẳng bao giờ phạt ta cả, chỉ có nút “like” thần thánh.



Kể cả việc chia sẻ những tin tức ta cảm thấy có ích cho người khác hoặc cho chính bản thân mình khi nghĩ “sau này sẽ có lúc cần”. Nhưng thực ra hơn 90% những tin chúng ta đã share ta chẳng bao giờ coi lại cả. Theo tâm lý thì việc “sẽ có lúc cần” này cho ta cảm giác là mình có ích, và một việc tốt mình làm sẽ là một “chứng chỉ đạo đức” (moral licensing) để ta tiếp tục thoải mái dùng thời gian của công việc cho fb, mà không hề còn cảm giác tội lỗi.

Tôi không phản đối việc dùng fb. Tôi đã chứng kiến cha mẹ cô dì tôi, những người hiếm khi nào cầm một cuốn sách đọc, đã đọc mọi thứ trên fb như thế nào. Fb là một cuộc cách mạng thông tin, cải thiện tình trạng đọc của mọi người. Tuy nhiên, cách tiếp cận, tiếp nhận và chọn lọc thông tin như thế nào là ở bạn. Cách sử dụng fb chỉ để lấy thông tin hay thỏa mãn bản năng là ở bạn. Tôi tin mọi người đều có thể là những người dùng thông minh.


Tham khảo:
[1] Adrian Meier, Leonard Reinecke, Christine E. Meltzer, “Facebocrastination? Predictors of using Facebook for procrastination and its effects on students well-being”, Computers in Human Behavior, Volume 64, November 2016, Pages 65-76.

[2] Berridge KC, Kringelbach ML, “ Affective neuroscience of pleasure: reward in humans and animals ”, Psychopharmacology, Volume 199, No 3,  2008, Pages 457-480.

[3] Kelly McGonagal, “The Willpower Instinct: How Self-Control Works, Why It Matters, and What You Can Do to Get More of It”, 2012, ISBN 978-1583335086.

Nhận xét

  1. Bài viết hay quá nhưng cảm giác cái kết hơi bị hụt, kiểu đọc đến cuối rồi mà không nghĩ là bài viết đã hết ý, định đọc tiếp mà hok thấy nữa :)

    Trả lờiXóa
  2. Bài viết hay quá nhưng cảm giác cái kết hơi bị hụt, kiểu đọc đến cuối rồi mà không nghĩ là bài viết đã hết ý, định đọc tiếp mà hok thấy nữa :)

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

LÀM SAO ĐỂ HẠNH PHÚC?

Hạnh phúc không phải là một thứ mà chúng ta có thể mua, theo đúng nghĩa bóng và nghĩa đen. Tiền nhiều chưa chắc mình cảm thấy hạnh phúc. Thật nhiều tiền thì có thể  🤣 . Đùa thôi chứ theo như nghiên cứu khoa học thì mức độ hạnh phúc của con người không tỷ lệ tuyến tính theo số tiền chúng ta có. Chúng ta chỉ cảm thấy hạnh phúc HƠN khi chúng ta có ít nhất 5 triệu đô (hơn 100 tỷ đồng) trong số dư tài khoản tiết kiệm (không tính tiền kinh doanh hay bất động sản). Với số tiền đó thì một người đã cảm thấy an toàn về tương lai của mình rồi. Và là HƠN thôi chứ không phải là hoàn toàn nhé. Người giàu cũng có những áp lực tài chính kiểu giàu, và những vấn đề cá nhân khác. Mà lỡ đâu mình không thể giàu nổi thì thôi mình phải an phận tìm cách khác để hạnh phúc vậy. Vậy thì làm sao để hạnh phúc? 🌸  Tâm lý học hiện đại đưa ra định nghĩa hạnh phúc là một trạng thái của tinh thần, không phải là mãi mãi, cũng như buồn, phấn khích, hay thất vọng. Nó đến rồi đi, như trời mưa với nắng. ...

TRÍ TUỆ NHÂN TẠO ĐÃ ĐI ĐẾN ĐÂU?

Google từ khoá “trí tuệ nhân tạo” sẽ ra hơn 30 triệu kết quả và dẫn đầu là những trang với tựa như “nguy cơ trí tuệ nhân tạo thao túng con người” hay “trí tuệ nhân tạo đã đạt đến trình độ sáng tác ngôn ngữ mới khiến con người ‘như vịt nghe sấm’ “. Nghe cứ như năm sau là các robot trong The terminator sẽ đến bắt con người làm nô lệ cho chúng vậy. Rốt cuộc trí tuệ nhân tạo là gì và nó đã phát triển đến đâu? Theo wiki thì trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence – AI) là trí tuệ được biểu diễn bằng bất kì một hệ thống nhân tạo nào. Thực ra để đạt được tầm trí tuệ nhân tạo toàn diện (general AI) như trong các bộ phim viễn tưởng về AI – có thể kể đến như The terminator, Ex Machina, Her, v.v… – thì chặng đường còn rất xa. Hiện nay các nghiên cứu khoa học mới nhất về trí tuệ nhân tạo chỉ dừng ở chơi cờ, chơi game, nhận diện khuôn mặt, dự đoán giá cả, nhận diện đối tượng trong hình, đặt tên cho hình (caption), chẩn đoán bệnh, v.v… – nói chung là những tác vụ rời rạc. Nghĩa là AI ...

NEUROPLASTICITY (KHẢ BIẾN THẦN KINH) VÀ NHÂN SINH QUAN

Các vùng vỏ não đã từng được gán cố định cho một chức năng thần kinh nhất định (localization), ví dụ như fusiform face area, một vùng nhỏ bên não phía sau tai, là để nhận diện khuôn mặt, vùng thị giác visual area V4, V5 để xử lí tín hiệu đưa từ mắt. Tuy nhiên, cho đến những năm 1960, thiết bị để nhìn cho người mù bẩm sinh của Paul Bach-y-Rita đã thay đổi cách nhìn nhận của giới khoa học về bộ não, đồng thời khái niệm neuroplasticity dần dần được chấp nhận và đưa vào nghiên cứu rộng rãi. Bắt nguồn từ một thí nghiệm cho thấy vùng não xử lí hình ảnh của con mèo còn xử lí cả âm thanh và xúc giác, Bach-y-Rita đã chú ý đến neuroplasticity và thực hiện nhiều nghiên cứu liên quan. Bên cạnh thiết bị giúp cho người mù bẩm sinh có thể nhìn, Bach-y-Rita còn thiết kế nhiều thiết bị trợ giúp trong y tế khác như thiết bị đóng vai trò như một tuyến yên nhân tạo để giúp cho những người chức năng giữ cân bằng của tuyến yên không hoạt động, hay găng tay có thể cảm nhận được dành cho các phi hành gia.....